Câu 1. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình ở nước ta được quy định như thế nào?
- Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu (Điều 113):
+ Ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người cấp dưỡng theo quy định tại Điều 112 của Luật hôn nhân và gia đình.
+ Cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà ngoại trong trường hợp ông bà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn được quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật hôn nhân và gia đình.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Câu 27. Vợ chồng tôi tính tình không hợp nhau, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cuộc sống chung nặng nề, căng thẳng. Cả hai chúng tôi cùng yêu cầu ly hôn. Xin hỏi, trong trường hợp này, Tòa án sẽ giải quyết như thế nào?
Theo Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, trong trường hợp vợ chồng bạn cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của người vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu vợ chồng bạn không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của người vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
- Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha, mẹ (Điều 111):
Con đã thành niên không sống chung với cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha, mẹ trong trường hợp cha, mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 của Luật hôn nhân và gia đình về chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình
Câu 32. Phát hiện chồng ngoại tình và đã có con với người đàn bà khácn, tôi đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Ngay sau khi bản án ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật, chồng tôi đã yêu cầu tôi phải dọn ra khỏi nhà - ngôi nhà chồng tôi được bố mẹ tặng cho riêng trước khi chúng tôi cưới nhau. Nhưng tạm thời tôi chưa tìm được chỗ ở mới phù hợp, vậy tôi có thể xin ở đó thêm một thời gian được không?
Điều 63 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn như sau:
Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Như vậy, trong trường hợp trên bạn có quyền yêu cầu người chồng cũ cho lưu cư tại ngôi nhà của anh ấy trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật.
Câu 33. Sau khi cưới nhau, vợ chồng anh A, chị B được bố mẹ hai bên gia đình hỗ trợ tiền để mua một căn nhà tại Hà Nội, trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ghi tên của cả hai vợ chồng. Đầu năm 2014, anh A đột ngột qua đời vì tai nạn giao thông. Chị B chuyển về quê ở Thái Bình sinh sống và có ý định bán căn nhà chung của hai vợ chồng. Khi biết chuyện, gia đình anh A đã yêu cầu chị B phải chia căn nhà đó theo pháp luật về thừa kế. Vậy xin hỏi Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như thế nào về vấn đề này?
Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết như sau:
1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
3. Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.
4. Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các mục 1, 2 và 3 nêu trên, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.
Căn cứ vào quy định trên, khi có yêu cầu của gia đình anh A về chia di sản thừa kế thì căn nhà thuộc sở hữu chung của anh A và chị B sẽ được chia đôi. Phần tài sản của anh A sẽ được chia theo pháp luật về thừa kế với hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của Bộ luật dân sự gồm: vợ, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của anh A.
Câu 34. Anh T là dân chài lưới. Do gặp bão, anh T bị thương nặng, trôi dạt vào bờ, được người dân địa phương cứu sống, nhưng phải mất ba năm sau anh T mới hồi phục. Được biết, sau hai năm kể từ ngày anh mất tích, vợ anh T đã đề nghị Tòa án tuyên bố anh T đã chết và xin được ly hôn với anh. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân giữa anh T và vợ cũ được giải quyết như thế nào?
Theo quy định tại Điều 83 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: "Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết".
Theo quy định tại Điều 67 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Trong trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật.
Về quan hệ tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng được giải quyết như sau:
- Trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực. Tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người đó;
- Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn.
Như vậy, theo quy định nêu trên, khi trở về, anh T cần yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố anh là đã chết để anh được khôi phục các quyền công dân. Vợ anh T đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật, Quan hệ hôn nhân của anh T và vợ đã chấm dứt. Tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố anh T là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn.
Câu 35. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cha mẹ có nghĩa vụ và quyền gì?
Theo quy định tại các điều 69, 71,72 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì cha mẹ có các nghĩa vụ và quyền sau đây:
- Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
- Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
- Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
- Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
- Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập. Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con.
- Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con.
- Cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được.
Câu 36. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, con có quyền và nghĩa vụ gì?
Theo quy định tại Điều 70 và Điều 71 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì con có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
- Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.
- Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc.
Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình.
- Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình.
- Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.
Câu 37. Bố mẹ chồng tôi mất có để lại di chúc cho con trai 6 tuổi của tôi quyền sử dụng mảnh đất 100 m2. Không may sau đó cháu mắc một bệnh hiểm nghèo, cần nhiều tiền để chữa trị. Vợ chồng đã thống nhất với nhau là sẽ chuyển nhượng quyền sử dụng mảnh đất này để lấy tiền chữa bệnh cho cháu. Xin hỏi, vợ chồng tôi có được đại diện cho con để thực hiện việc chuyển quyền sử dụng mảnh đất đó không? Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như thế nào về vấn đề này?
Theo Điều 73 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc cha mẹ đại diện cho con như sau:
1. Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật.
2. Cha hoặc mẹ có quyền tự mình thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
3. Đối với giao dịch liên quan đến tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, tài sản đưa vào kinh doanh của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì phải có sự thỏa thuận của cha mẹ.
4. Cha, mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới về việc thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản của con được quy định tại mục 2 và mục 3 nêu trên và theo quy định của Bộ luật dân sự.
Đối chiếu với những quy định trên, vợ chồng anh chị có quyền đại diện cho con thực hiện chuyển quyền sử dụng mảnh đất đó.
Câu 38. Con tôi sang nhà hàng xóm chơi, do sơ ý đã làm hỏng chiếc tivi của nhà hàng xóm, vậy xin hỏi tôi có phải bồi thường thiệt hại do con tôi gây ra hay không?
Điều 74 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự.
Theo qui định của Điều 606 Bộ luật dân sự, người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
Như vậy, đối chiếu với quy định nêu trên, nếu con bạn chưa đủ 15 tuổi mà gây thiệt hại thì bạn phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Nếu tài sản của bạn không đủ để bồi thường mà con bạn có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp con bạn gây thiệt hại trong thời gian học tại trường thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra. Nếu con bạn đã đủ 15 tuổi mà gây thiệt hại, con bạn phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu không đủ tài sản để bồi thường thì bạn phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
Câu 39. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, con có quyền có tài sản riêng không?
Theo Điều 75 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của con cũng là tài sản riêng của con.
Con từ đủ 15 tuổi trở lên sống chung với cha mẹ phải có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình; đóng góp vào việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình nếu có thu nhập.
Con đã thành niên có nghĩa vụ đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình.
Câu 40. Bố chồng tôi qua đời, có di chúc để lại cho con trai 10 tuổi của tôi một ngôi nhà nhưng lại giao cho mẹ chồng tôi quản lý cho đến khi cháu tròn 18 tuổi. Xin hỏi Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như thế nào về quản lý tài sản riêng của con? Vợ chồng tôi có được quyền quản lý ngôi nhà này của con tôi không?
Điều 76 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định việc quản lý tài sản riêng của con như sau:
1. Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý.
2. Tài sản riêng của con dưới 15 tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con. Tài sản riêng của con do cha mẹ hoặc người khác quản lý được giao lại cho con khi con từ đủ 15 tuổi trở lên hoặc khi con khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp cha mẹ và con có thỏa thuận khác.
3. Cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con trong trường hợp con đang được người khác giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự; người tặng cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc cho người con đã chỉ định người khác quản lý tài sản đó hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
4. Trong trường hợp cha mẹ đang quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự mà con được giao cho người khác giám hộ thì tài sản riêng của con được giao lại cho người giám hộ quản lý theo quy định của Bộ luật dân sự.
Như vậy, con bạn dưới 15 tuổi thì cha mẹ có quyền quản lý tài sản riêng của con. Tuy nhiên, đây là tài sản con bạn được thừa kế từ ông nội, mà trong di chúc của bố chồng bạn có ghi rõ mẹ chồng bạn là người quản lý tài sản này thì vợ chồng bạn không có quyền quản lý tài sản này nữa.
Câu 41. Con anh X là cháu H được ông ngoại tặng cho chiếc xe máy (giấy đăng ký xe mang tên H) vào dịp sinh nhật tròn 17 tuổi. Hai tháng sau, H không thích màu sơn đó nên định bán đi mua xe khác. Bố mẹ H không đồng ý cho H bán. Xin hỏi, theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này H có được quyền tự mình bán chiếc xe máy đó không?
Điều 77, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định việc định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự như sau:
“1. Trường hợp cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng của con dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, nếu con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
2. Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ.
3. Trong trường hợp con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì việc định đoạt tài sản riêng của con do người giám hộ thực hiện.”
Trong trường hợp này, H mới hơn 17 tuổi, chưa đủ 18 tuổi nên là người chưa thành niên. Chiếc xe máy của H là tài sản có đăng ký quyền sở hữu. Vì vậy, theo quy định nêu trên, H chỉ được bán chiếc xe máy đó khi có sự đồng ý bằng văn bản của bố mẹ.
Câu 42. Theo Luật hôn nhân và gia đình, quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi được quy định như thế nào, được xác lập và chấm dứt khi nào?
Theo quy định tại Điều 78 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật nuôi con nuôi, thì cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định theo Điều 69, 70 của Luật hôn nhân và gia đình.
Trong trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quyết định của Tòa án thì quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Câu 43. Ba của H qua đời đã lâu. Từ lúc còn nhỏ, H đã sống với mẹ và ba dượng. Mẹ H và ba dượng không có con. Nay, mẹ H qua đời, H đã lập gia đình và ở riêng. Vậy, theo quy định của pháp luật, H phải có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng ba dượng hay không?
Theo Điều 79 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định quyền, nghĩa vụ của bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng như sau:
1. Cha dượng, mẹ kế có quyền và nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của bên kia cùng sống chung với mình theo quy định tại các điều 69, 71 và 72 của Luật hôn nhân và gia đình.
2. Con riêng có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình theo quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Luật hôn nhân và gia đình.
Trong đó, khoản 2 Điều 71 Luật hôn nhân và gia đình quy định nghĩa vụ và quyền của con: Con có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.
Như vậy, trong trường hợp này, H phải có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng ba dượng của mình.
Câu 44. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quy định như thế nào?
Theo Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:
- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
- Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Câu 45. Sau khi ly hôn, vợ tôi được Tòa án cho nuôi con vì con tôi còn nhỏ. Tuy nhiên sau đó, vợ tôi lại thường xuyên phải đi công tác xa, để con lại cho mẹ cô ấy chăm sóc, cuộc sống của cháu thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Vậy tôi có quyền yêu cầu Tòa án cho phép tôi nuôi con được không?
Theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức như cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
- Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
- Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Như vậy, bạn có thể thỏa thuận với vợ cũ về việc cho phép bạn trực tiếp nuôi con để bảo đảm lợi ích của con và yêu cầu Tòa án giải quyết việc đó; nếu không thỏa thuận được thì bạn có thể tự mình yêu cầu hoặc đề nghị người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Câu 46. Pháp luật quy định những trường hợp nào thì hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên?
Theo quy định tại Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
- Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
- Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Câu 47. Tại khu dân cư nơi tôi đang sinh sống, có trường hợp người vợ vì căm ghét chồng do bị chồng phản bội, mà đánh đập, ngược đãi con rất tàn nhẫn. Gia đình, hàng xóm đã nhiều lần khuyên can nhưng tình trạng trên vẫn tiếp diễn. Vậy xin hỏi, tôi là hàng xóm thì có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của người mẹ đối với con chưa thành niên hay không?
Theo quy định tại Điều 86 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, khi có các biểu hiện cần hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên thì cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên; người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện cha, mẹ có hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật hôn nhân và gia đình (như phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý; vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; phá tán tài sản của con; có lối sống đồi trụy; xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội) có quyền đề nghị cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em và Hội liên hiệp phụ nữ yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Như vậy, trường hợp trên, với trách nhiệm của một công dân, bạn nên báo ngay chính quyền, đoàn thể cơ sở để can thiệp kịp thời, đồng thời bạn có quyền đề nghị cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ địa phương yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của người mẹ đối với đứa trẻ đang bị bạo hành.
Câu 48. Việc xác định cha, mẹ và xác định con được quy định như thế nào?
Điều 88, Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định việc xác định cha, mẹ và xác định con như sau:
- Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
- Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
- Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình.
- Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình.
Câu 49. Quyền nhận cha, mẹ; quyền nhận con được pháp luật quy định như thế nào?
Điều 90, Điều 91 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định quyền nhận cha, mẹ; quyền nhận con như sau:
- Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.
- Con đã thành niên nhận cha, không cần phải có sự đồng ý của mẹ; nhận mẹ, không cần phải có sự đồng ý của cha.
- Cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết.
- Trong trường hợp người đang có vợ, chồng mà nhận con thì việc nhận con không cần phải có sự đồng ý của người kia.
Câu 50. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được quy định như thế nào?
Theo quy định tại Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng đang không có con chung;
c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;
d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;
đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Câu 51. Quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được quy định như thế nào?
Theo Điều 97 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được quy định như sau:
- Người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.
- Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế.
- Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
- Bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
- Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con.
Câu 52. Vợ chồng anh A, chị M lấy nhau đã được hơn 4 năm nhưng không có con. Anh chị có làm văn bản thỏa thuận với chị B – em họ chị M về việc mang thai hộ. Văn bản thỏa thuận này đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện về việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Trong thỏa thuận, hai bên thống nhất với nhau về việc giao con cho bên nhờ mang thai hộ là khi con sinh ra được 4 tháng tuổi. Tuy nhiên, sau khi sinh con, chị B lại muốn tự mình nuôi và chăm sóc con nên đã không giao con cho vợ chồng anh A, chị M. Trong trường hợp này, vợ chồng anh A, chị M nên làm gì?
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (Điều 98), theo đó tại khoản 5 của Điều này có quy định :
“Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con”
Như vậy, trong trường hợp này, vợ chồng anh A có thể yêu cầu Tòa án buộc chị B giao con cho anh chị như đã thỏa thuận.
Câu 53. Tổ chức, cá nhân nào có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự?
Khoản 3 Điều 102 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:
Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này:
- Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
- Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
VI. QUAN HỆ GIỮA CÁC THÀNH VIÊN KHÁC CỦA GIA ĐÌNH
Câu 54. Quyền, nghĩa vụ của ông bà nội, ông bà ngoại đối với cháu được quy định như thế nào?
Điều 104 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về quyền và nghĩa vụ của ông bà nội, ông bà ngoại đối với cháu như sau:
Ông bà nội, ông bà ngoại có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu; trường hợp cháu chưa thành niên, cháu đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng (anh, chị, em) thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu.
Câu 55. Quyền và nghĩa vụ của anh chị em trong gia đình được quy định như thế nào?
Điều 105 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về quyền và nghĩa vụ của anh, chị, em như sau:
Anh, chị, em có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
Câu 56. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện như thế nào?
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng như sau:
Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng, cụ thể như sau: